UCP 600 trong thanh toán quốc tế

Chắc hẳn các doanh nghiệp làm trong lĩnh vực xuất nhập khẩu không còn xa lại gì khi nhắc đến UCP. Vậy UCP là gì? Và tại sao các doanh nghiệp làm xuất nhập khẩu phải biết đến UCP.

Dưới đây thutucxuatnhapkhau.com sẽ trình bày về UCP là gì và những thay đổi của UCP 600 so với UCP 500.

UCP 600
UCP 600 trong thanh toán quốc tế

UCP là gì?

UCP 600 thuộc UCP là viết tắt của “The Uniform Custom and Practice for Documentary Credit” (Quy tắc thực hành thống nhất về tín dụng chứng từ), là ấn phẩm của phòng thương mại quốc tế (International Chamber of Commerce – ICC). Trong đó quy định quyền hạn của các bên liên quan trong giao dịch tín dụng chứng từ, nhằm đáp ứng nhu cầu của giới tài chính, ngân hàng cũng như các doanh nghiệp, các nhà xuất nhập khẩu về một văn bản quy định đầy đủ, dễ áp dụng và được chấp nhận một cách thống nhất trong việc mở và xử lý một thư tín dụng (Letter of Credit – L/C).

 UCP được các ngân hàng và các bên tham gia thương mại áp dụng ở trên 175 quốc gia. Khoảng 11-15% thương mại quốc tế sử dụng thư tín dụng với tổng giá trị hơn 1.000 tỷ USD mỗi năm.

Lịch sử hình thành

UCP – Uniform Customs and Practice for Documentary Credits, là tập hợp các nguyên tắc và tập quán quốc tế được ICC soạn thảo và phát hành, trong đó quy định quyền hạn và trách nhiệm của các bên liên quan trong giao dịch tín dụng chứng từ khi L/C dẫn chiếu tuân thủ UCP. UCP được phát hành lần đầu năm 1933, qua nhiều lần sửa đổi: 1951, 1962, 1974, 1983, 1993, 2007. Phiên bản mới nhất, UCP 600 có hiệu lực từ 1/7/2007 với 39 điều khoản so với 49 điều khoản của UCP 500 (1993).

Tính chất pháp lý của UCP 600

UCP 600 không phải là luật nên không mang tính chất pháp lý bắt buộc. Do đó tất cả các phiên bản UCP đều còn nguyên giá trị. Vì thế khi dẫn chiếu UCP phải nói rõ UCP nào đang được áp dụng.

UCP chỉ có hiệu lực pháp lý bắt buộc khi trong L/C có dẫn chiếu áp dụng UCP.

Nếu UCP xung đột với luật quốc gia, thì luật quốc gia vượt UCP về mặt pháp lý. Điều này có nghĩa là, phán quyết của tòa án địa phương có thể phủ nhận nội dung giao dịch bằng L/C.

Trong giao dịch L/C, các bên phải tuân thủ các điều khoản của L/C, sau đó mới đến các điều khoản của UCP.

Nội dung của UCP

Các thuật ngữ của UCP

Ngân hàng thông báo (Advising Bank) là ngân hàng thông báo L/C cho người thụ hưởng.

Người đề nghị mở L/C (Applicant): là bên mà L/c được phát hành theo yêu cầu của họ. Thông thường người đề nghị mở L/C là nhà nhập khẩu

Người thụ hưởng (Beneficiary): bên hưởng số tiền thanh toán. Thông thường người thụ hưởng là nhà xuất khẩu.

Xuất trình phù hợp (Complying presentation): là việc xuất trình chứng từ phù hợp với các điều kiện và điều khoản của L/C.

Xác nhận (Confirmation)

Ngân hàng xác nhận (Confirming Bank): là ngân hàng bổ sung sự xác nhận của mình vào L/C theo yêu cầu của người đề nghị mở L/C hoặc yêu cầu của ngân hàng phát hành.

Tín dụng (Credit) còn được gọi là tín dụng thư hay thư tín dụng.

Thanh toán (Honor) bao gồm thanh toán trả ngay, thanh toán trả chậm, và chấp nhận hối phiếu.

Ngân hàng phát hành (Issuing Bank), là ngân hàng thực hiện phát hành L/C theo đơn của người đề nghị mở L/C.

Chiết khấu (Negotiation) là việc Ngân hàng được chỉ định mua các hối phiếu (ký phát đòi tiền ngân hàng khác) và/hoặc các chứng từ xuất trình phù hợp bằng cách ứng trước hoặc đồng ý ứng trước tiền cho người thụ hưởng.

Ngân hàng được chỉ định (Nominated Bank), là ngân hàng mà tại đó L/C có giá trị thanh toán hoặc chiết khấu.

Xuất trình chứng từ (Presentation) là việc chuyển giao chứng từ theo L/C cho ngân hàng phát hành hoặc cho ngân hàng được chỉ định.

Người xuất trình chứng từ (Presenter) là người thụ hưởng, ngân hàng, hoặc một bên khác thực hiện việc xuất trình.

Trách nhiệm của các Ngân hàng

Trách nhiệm của Ngân hàng phát hành (Điều 7 – UCP 600)

Sau khi hoàn thành đơn xin mở L/C, Ngân hàng phát hành cần kiểm tra những nội dung liên quan đến phát hành L/C.

L/C có thể được phát hành bằng thư (qua đường bưu điện), bằng điện (Telex, fax hoặc SWIFT).

Khi chứng từ xuất trình là phù hợp, ngân hàng phát hành có nghĩa vụ thanh toán nếu L/C có giá trị trả ngay, trả chậm hoặc chấp nhận bởi ngân hàng phát hành.

Ngân hàng phát hành chịu ràng buộc không hủy ngang thực hiện thanh toán tính từ thời điểm tín dụng được phát hành.

Ngân hàng phát hành cam kết hoàn trả cho ngân hàng được chỉ định khi ngân hàng được chỉ định đã thanh toán hoặc chiết khấu bộ chứng từ phù hợp và đã chuyển chứng từ cho ngân hàng phát hành.

Trách nhiệm của Ngân hàng xác nhận (Điều 8 – UCP 600)

Trong trường hợp nhà xuất khẩu muốn có sự đảm bảo chắc chắn được thanh toán, một ngân hàng khác có thể đứng ra xác nhận L/C theo yêu cầu của ngân hàng phát hành.

Ngân hàng xác nhận thường là ngân hàng lớn có uy tín. Trên thực tế, người thụ hưởng thường chỉ định ngân hàng xác nhận, nếu không chỉ định thì ngân hàng phát hành sẽ tự chọn, và ngân hàng thông báo thường được đề nghị là ngân hàng xác nhận.

Thông thường yêu cầu xác nhận được ghi trong một “Thư yêu cầu”, hoặc được ghi trực tiếp lên L/C ở mục “Các điều kiện khác” hoặc “Ghi chú”. Ngân hàng được đề nghị xác nhận L/C, nếu đồng ý thì phải thông báo quyết định của mình đồng thời cho ngân hàng phát hành và người thụ hưởng; nếu không đồng ý cũng phải thông báo ngay cho ngân hàng phát hành biết.

Trách nhiệm trả tiền trước hết thuộc về ngân hàng phát hành, nếu ngân hàng phát hành không trả thì ngân hàng xác nhận phải trả thay. Nhưng theo quy định của UCP, việc xác nhận của ngân hàng xác nhận tạo nên một cam kết chắc chắn, không hủy ngang, bổ sung vào cam kết của ngân hàng phát hành.

Khi chứng từ xuất trình là phù hợp, ngân hàng xác nhận có nghĩa vụ thanh toán nếu L/C có giá trị.

Khi chứng từ xuất trình là phù hợp, ngân hàng xác nhận phải chiết khấu miễn truy đòi, nếu L/C có giá trị chiết khấu tại ngân hàng xác nhận.

Ngân hàng xác nhận chịu ràng buộc không hủy ngang đối với việc thanh toán hoặc chiết khấu kể từ thời điểm xác nhận L/C.

Ngân hàng xác nhận cam kết hoàn trả tiền cho 1 ngân hàng được chỉ định khác khi ngân hàng này đã thanh toán hoặc đã chiết khấu đối với xuất trình phù hợp và đã chuyển chứng từ cho ngân hàng xác nhận.

Cam kết trả tiền của ngân hàng xác nhận cho ngân hàng được chỉ định độc lập với cam kết của ngân hàng xác nhận đối với người thụ hưởng.

Trách nhiệm của Ngân hàng thông báo (Điều 9 – UCP 600)

Mục đích chuyển L/C cho ngân hàng thông báo: xác minh tính chân thật bề ngoài của L/C trước khi thông báo cho nhà xuất

Bất kỳ L/C hoặc sửa đổi L/C nào không xác minh được tính chân thật bề ngoài thì ngân hàng thông báo phải thông báo ngay cho ngân hàng phát hành.

Ngân hàng thông báo phải chuyển chính xác và đầy đủ các điều kiện và điều khoản của L/C hoặc sửa đổi L/C đã nhận được cho người thụ hưởng.

Ngân hàng thông báo không có trách nhiệm về các sai sót trong việc dịch hoặc giải thích các thuật ngữ chuyên môn, không chịu trách nhiệm về khả năng giao hàng của người hưởng, khả năng thanh toán của người yêu cầu.

Trách nhiệm của Ngân hàng được chỉ định (Điều 12 – UCP 600)

Khi chứng từ xuất trình là phù hợp, ngân hàng được chỉ định được ngân hàng phát hành chỉ định để thực hiện:

Trả ngay cho người thụ hưởng nếu L/C quy định “available with the nominated bank by sight payment”.

Chấp nhận hối phiếu nếu L/C quy định “available with the nominated bank by acceptance”.

Cam kết trả chậm nếu L/C quy định “available with the nominated bank by deferred payment”.

Chiết khấu hối phiếu hoặc các chứng từ nếu L/C quy định “available with the nominated bank by negotiation”.

Thay đổi của UCP 600 so với 500

Đầu tiên: về hình thức, UCP 600 được bố cục lại với 39 điều khoản (so với 49 điều khoản của UCP 500), trong đó bổ sung nhiều định nghĩa và giải thích thuật ngữ mới để làm rõ nghĩa của các thuật ngữ còn gây tranh cãi trong bản UCP 500.

Thứ hai, UCP 600 đã quy định rõ thời gian cho việc từ chối hoặc chấp nhận các chứng từ xuất trình là khoảng thời gian cố định “5 ngày làm việc ngân hàng” (five banking days). Còn ở UCP 500, khoảng thời gian này được quy định không rõ ràng là “Thời gian hợp lý” (Reasonable Time) và “Không chậm trễ” (Without delay) để kiểm tra chứng từ và thông báo chứng từ bất hợp lệ. Cụ thể như sau:

Thứ ba, UCP 600 đã đưa ra quy định mới về địa chỉ của người yêu cầu mở và người hưởng lợi thư tín dụng phải được thể hiện trên chứng từ xuất trình đúng như trong L/C:

Thứ tư, theo UCP 600, ngân hàng phát hành được phép từ chối chứng từ và giao bộ chứng từ cho người yêu cầu mở thư tín dụng khi nhận được chấp nhận bộ chứng từ bất hợp lệ của họ.

Tình hình áp dụng UCP 600 tại Việt Nam

Thực tiễn áp dụng UCP 600 của các ngân hàng thương mại

 Những khó khăn trong giai đoạn đầu UCP 600 có hiệu lực

Khó khăn lớn nhất mà các ngân hàng gặp phải là do nhiều nhà doanh nghiệp nhập khẩu Việt nam chưa chủ động tìm hiểu kỹ về UCP 600, hơn nữa, một thói quen khá lâu sử dụng UCP500. Họ chỉ quan tâm những điều gây bất lợi cho mình như quy định phải thanh toán sớm cho nhà xuất khẩu nên chỉ muốn áp dụng nguồn luật cũ UCP500. Do đó, ngân hàng không dễ dàng trong việc tư vấn cho các doanh nghiệp xuất nhập khẩu hiểu và thống nhất áp dụng UCP 600.

 Đánh giá những hoạt động của các ngân hàng để phù hợp với những thay đổi của UCP 600

a.Những mặt tích cực

Chính là sự tiếp nhận một cách tích cực và chủ động trong công tác chuẩn bị của các ngân hàng trước những thay đổi của UCP, thông tin về các hoạt động được phổ biến rộng rãi trên các thông tin như Internet, Tạp chí ngân hàng, Thời báo kinh tế…đã khuyến nghị, khích lệ cho hoạt động áp dụng UCP 600 vào thực tiễn được sâu rộng và hiệu quả.

Các thanh toán viên cũng như các doanh nghiệp được trang bị kiến thức theo mục đích sử dụng nên không có xáo trộn đáng kể khi UCP 600 có hiệu lực. Các kế hoạch chi tiết về thời gian, đối tượng đào tạo, nội dung đào tạo, giảng viên nhiều kinh nghiệm trong hoạt động thanh toán quốc tế, các chuyên gia trực tiếp tham gia soạn thảo UCP truyền đạt nên tiết kiệm được chi phí và thời gian.

b.Những mặt còn hạn chế

Bên cạnh những mặt tích cực, việc áp dụng UCP của các ngân hàng thương mại Việt nam vẫn còn bộc lộ những mặt hạn chế nhất định. Trước hết, do chênh lệch về tỷ lệ sử dụng phương thức tín dụng chứng từ giữa các chi nhánh có sự chênh lệch rất lớn do khối lượng giao dịch thanh toán xuất nhập khẩu của các chi nhánh tại các thành phố lớn như Hà Nội, Hồ Chí Minh lớn gấp nhiều lần so với các chi nhánh ở các tỉnh, thành phố khác.

Cho nên việc đào tạo chưa triển khai tới toàn bộ các chi nhánh cấp I và cấp II, các thanh toán viên tại các chi nhánh không có cơ hội mở rộng kiến thức, thực hành về UCP 600, thậm chí có những chi nhánh như Chi nhánh Ngân Hàng Công Thương Bến Thuỷ từ năm 2006 đã giải tán phòng thanh toán quốc tế do hoạt động không có hiệu quả, và rất nhiều Ngân hàng thương mại khác tại thành phố Vinh khi được hỏi về UCP 600 đều trả lời là chưa có cơ hội tiếp cận.

Ngoài ra, hoạt động về quản lý rủi ro đối với việc phát hành L/C có giá trị lớn cũng chưa được quan tâm đúng mức. Hiện nay, các thanh toán viên phụ trách việc thẩm định hầu hết chỉ căn cứ theo hợp đồng ngoại thương của khách hàng, thiên về mối quan hệ và cảm tính chứ chưa dựa trên các thông tin phân tích tài chính.

Ví dụ, thị trường loại hàng hoá ghi trong hợp đồng hiện nay diễn biến như thế nào? Tình hình tài chính của doanh nghiệp ra sao? …Từ đó, xúc tiến thẩm định khách hàng và giá trị thực L/C để xác định được rủi ro nội tại trong L/C. Tuy nhiên, việc thu thập các thông tin của các thanh toán viên vẫn còn mang tính thụ động, chưa có bộ phận quản lý và phân tích thông tin.

Rất nhiều quy định trong UCP 600 đối với ngân hàng phát hành, Ngân hàng thông báo, Ngân hàng thương lượng thanh toán đòi hỏi phải tìm hiểu và mở rộng với các ngân hàng đại lý trên toàn thế giới nhưng những bất cập trong việc thu thập nguồn thông tin như vậy sẽ ảnh hưởng rất lớn an toàn giao dịch và quản lý rủi ro.

Một số kiến nghị mang tính giải pháp nhằm thúc đẩy khả năng áp dụng UCP 600 tại các NHTM Việt Nam.

Kiến nghị đối với phòng thương mại quốc tế ICC

Khi mở thư tín dụng chúng ta nên đưa vào thư tín dụng những điều khoản cụ thể để hạn chế tối đa khả năng phát sinh do các bất cập của UCP 600. Ví dụ, tên điều 19 UCP 600 là “Chứng từ vận tải đối với hành trình có ít nhất hai hình thức vận tải khác nhau” nhưng trong thực tế nó vẫn được áp dụng ngay cả khi chỉ có một phương thức vận tải được sử dụng.

Do đó, nội dung này cũng cần được quy định cụ thể trong thư tín dụng. Nhưng điều quan trọng nhất khi áp dụng UCP 600 vào tín dụng chứng từ là phải luôn cẩn thận, đọc và phân tích kỹ các điều khoản để tìm ra những điểm chưa hợp lý trong các điều khoản của L/C hay UCP 600 để kịp thời điều chỉnh trước khi xảy ra những điều đáng tiếc. Sở dĩ đây được coi là tiêu chí quan trọng nhất vì nó quyết định tới phân nửa sự thành công của giao dịch thanh toán tín dụng chứng từ.

Kiến nghị đối với cơ quan quản lý (Chính phủ và ngân hàng nhà nước Việt Nam)

a.Đối với chính phủ và các bộ ngành có liên quan:

Tạo một hành lang pháp lý minh bạch điều chỉnh mối quan hệ giữa UCP 600 và luật quốc gia. Cụ thể là cần xây dựng các văn bản Luật hoặc dưới luật như Luật, nghị định, các văn bản dưới luật…quy định hành lang pháp lý rõ ràng về trách nhiệm, quyền lợi và nghĩa vụ của các bên tham gia. Đặc biệt có cơ chế pháp luật điều chỉnh đối với từng trường hợp cụ thể khi xảy ra xung đột giữa luật quốc gia và UCP 600.

Tuy nhiên, để ban hành được nguồn luật về thanh toán quốc tế không phải ngày một ngày hai mà là một quá trình nghiên cứu lâu dài, Chính phủ cần có sự đồng thuận, hợp tác, ủng hộ từ phía ngân hàng nhà nước, ngân hàng thương mại, và các doanh nghiệp xuất nhập khẩu. Hoạt động xuất nhập khẩu của nước ta đang trong quá trình hội nhập và tiềm năng phát triển là rất lớn.

Trước xu thế đó đòi hỏi chính phủ phải kịp thời ban hành các nghị định về thanh toán quốc tế để phù hợp với lộ trình hội nhập thương mại quốc tế của Việt Nam, thu hút đầu tư nước ngoài, thúc đẩy hoạt động xuất nhập khẩu. Một điều chúng ta phải thừa nhận là các doanh nghiệp nước ngoài vẫn còn e ngại khi hợp tác với nước ta bởi thủ tục pháp lý rườm rà và chưa rõ ràng.

b.Đối với ngân hàng nhà nước:

Cần tập trung nguồn lực và đầu tư cần thiết để kết hợp với Chính phủ ban hành Nghị định về thanh toán quốc tế. Cố vấn về mặt chuyên môn và kinh nghiệm thực tiễn để cơ quan Chính phủ sớm hoàn chỉnh nội dung nguồn luật. Thành lập một nhóm hay bộ phận riêng biệt chuyên phụ trách về thanh toán quốc tế hướng dẫn chỉ đạo kiểm tra tình hình hoạt động này đối với các ngân hàng thương mại.

Thống nhất về phổ cập UCP 600 tới các ngân hàng thương mại để các thanh toán viên trên toàn hệ thống ngân hàng cũng như các doanh nghiệp xuất nhập khẩu hiểu và vận dụng đúng UCP 600, tránh tình trạng UCP 600 bị suy diễn theo một cách riêng.

Để làm được điều này, ngân hàng nhà nước cần chính thức ban hành các văn bản hướng dẫn, giải thích dễ hiểu về việc áp dụng UCP 600. Ngoài ra, ngân hàng nhà nước cũng nên ban hành đồng thời hệ thống pháp quy hướng dẫn quy trình thực hiện phương thức tín dụng chứng từ, tránh tình trạng các ngân hàng thương mại tự do thay đổi quy trình theo điều kiện riêng của mình như thực tế hiện nay của Việt Nam. Như vậy, chúng ta mới nâng cao được năng lực cạnh tranh về nghiệp vụ thanh toán trên trường quốc tế.

c.Đối với Ngân hàng thương mại Việt Nam

Cho đến khi Chính phủ và Ngân hàng nhà nước ban hành các văn bản Quan hệ giữa các Ngân hàng thương mại được điều chỉnh dựa trên nguyên tắc chung theo các quy ước, thông lệ quốc tế và luật pháp của mỗi nước. Theo đó, ở mỗi quốc gia cũng không thể thống nhất tuyệt đối về quy trình nghiệp vụ thanh toán tín dụng chứng từ.

Trong quá trình đầu áp dụng, các NHTM cần có tinh thần hợp tác, thường xuyên trao đổi kinh nghiệm, phối hợp và giúp đỡ lẫn nhau trong nghiệp vụ cũng như khai thác nguồn thông tin. Các NHTM cần coi hoạt động tín dụng chứng từ là một mảng hoạt động chung, tương tác hỗ trợ nhau phát triển. Chủ động tiếp cận, nghiên cứu, bỗ sung, tu chỉnh kịp thời trước những thay đổi của các nguồn luật.

d.Đối với các đơn vị hoạt động trong lĩnh vực thương mại quốc tế

Theo điều tra của cơ quan đại diện cho cộng đồng các doanh nghiệp Việt Nam, cả nước ta hiện nay có khoảng 34000 doanh nghiệp,trong đó có 70% số giám đốc doanh nghiệp vừa và nhỏ chưa qua đào tạo chính quy về nghiệp vụ ngoại thương, vậy mà có tới 80-85% số doanh nghiệp này lại thường xuyên tham gia vào kinh doanh xuất nhập khẩu hoặc uỷ thác xuất nhập khẩu.

Hơn nữa, trình độ ngoại ngữ phổ cập nhất (tiếng Anh) của các cán bộ kinh doanh xuất nhập khẩu còn rất hạn chế nên có thể nói các doanh nghiệp xuất nhập khẩu gặp không ít khó khăn trong quá trình giao dịch. Để khắc phục được vấn đề này, các doanh nghiệp phải lên kế hoạch đào tạo cụ thể cho cán bộ công nhân viên.

Đặc biệt, đối với việc cập nhật và áp dụng UCP 600, cần tham gia đầy đủ các hội thảo, các lớp đào tạo tại các Trường đại học chuyên ngành hay tại Phòng thương mại và công nghiệp tổ chức. Các doanh nghiệp phải nhìn vào kết quả thực tế đa số bộ chứng từ họ xuất trình lần đầu tiên theo thư tín dụng đã bị từ chối vì có sai sót, gây thiệt hại cho các doanh nghiệp cả về thời gian và tiền bạc.

Do đó, bản thân các doanh nghiệp cũng phải tự cập nhật các kiến thức để tự bảo vệ mình và tự tin khi tham gia vào thương mại quốc tế.

e.Đối với các cơ sở đào tạo nghiệp vụ ngân hàng nói chung và thanh toán quốc tế nói riêng.

Để đào tạo và phổ cập kiến thức về nghiệp vụ chuyên môn trong ngành ngân hàng trong đó có phương thức tín dụng chứng từ thì vai trò của các trường đại học chuyên ngành là rất quan trọng. Không chỉ góp phần trong việc đào tạo nâng cao trình độ chuyên môn cho cán bộ công nhân viên mà còn là nơi giảng dạy đào tạo sinh viên, những người gánh vác vận mệnh tương lai của đất nước. Do đó, việc trang bị các kiến thức chuyên sâu và mang tính thực tiễn là mục tiêu lớn nhất của những người làm công tác đào tạo.

Tóm lại, mặc dù trong giai đoạn đầu áp dụng vẫn chưa có vấn đề nào nổi cộm liên quan tới UCP 600 nhưng phương thức tín dụng chứng từ là một hoạt động rộng, mang tính quốc tế nên đòi hỏi tất cả các ngân hàng, các doanh nghiệp xuất nhập khẩu không được chủ quan mà cần đặt mối quan tâm hàng đầu vào việc tiếp tục tìm hiểu và đào tạo theo chiều sâu để có thể vận dụng UCP 600 một cách có hiệu quả nhất.

Cảm ơn các bạn đã dành thời gian đọc bài viết, hi vọng bài viết sẽ giúp các bạn hiểu rõ hơn về UCP 600 trong thanh toán quốc tế. Nếu có thắc mắc vui lòng liên hệ hotline: 0972433318 để được tư vấn chi tiết hoặc để lại comment.

Công ty cổ phần Dịch vụ và Thương mại quốc tế OZ Việt Nam

Địa chỉ: Số 8/162 Nguyễn Văn Cừ, Bồ Đề, Long Biên, Hà Nội

Điện thoại: 0972433318

Email: xnkngantin@gmail.com

Đánh giá post